[tp_table id=5 /]
Tác Giả: Thích Pháp Trí
Ngài, thì quả là không còn lời nào để ca tụng. Thái độ ấy, khi Phật chưa ra đời, tìm đâu ra mấy người làm được? Không lẽ đó cũng là thái độ bi quan?
Vậy thì, Phật nói khổ với mục đích gì? Phải chăng Ngài nói khổ chỉ để thở than hoặc an ủi chúng sinh rồi phó mặc đó? Không. Mà ngược lại, Ngài nói Khổ là để chỉ cho ta thấy rõ, rồi từ đó tìm về nguyên nhân mà giải quyết chúng: “Này các Tỳ-kheo, Như lai đã dạy các thầy những gì? Như lai đã dạy các thầy sự thật về Khổ, nguyên nhân đau Khổ, đoạn diệt đau khổ và con đường đi đến đoạn diệt đau khổ. Tại sao Như lai dạy các thầy chân lý đó? Vì chúng thật sự có ích và cần thiết để đi đến một đời sống lý tưởng; vì chúng làm cho các thầy từ bỏ mọi dục lạc, giải thoát mọi say đắm, chấm dứt mọi khổ đau, đi đến thanh tịnh, giác ngộ, Niết-bàn”.(24)
* Trường hợp thứ hai: Có người cho rằng, Phật giáo nói khổ, vậy thì ai khổ?
Thiết tưởng để trả lời câu hỏi này, tôi không có thẩm quyền mấy. Nhưng có một trường hợp tương tự trong kinh Nikàya, tôi xin được nêu ra đây, để mỗi chúng ta tự giải quyết lấy: Tôn giả Moliya Phagguna một hôm hỏi đức Phật về việc “ai là người xúc chạm, ai là người cảm thọ?”. Phật dạy: “Như Lai chỉ nói có xúc, có thọ mà không nói có ai xúc chạm, ai cảm thọ”. Ai mê, ai khổ cũng như vậy.
Thế thì, đối với vấn đề này, đức Phật đã không trả lời, vậy ta còn cố đặt vấn đề này nọ làm gì nữa cho mệt! Hơn nữa, đây không phải là phạm trù của tư duy, lại càng chẳng phải lĩnh vực hiểu biết của phàm phu, thì dù có muốn nói đi nữa, vậy ta sẽ nói thế nào đây? Có nói cũng chỉ là miễn cưỡng và chứa đầy chất liệu “chấp thủ” mà thôi, lại e không khỏi sai lạc. Vì sao? Vì như trước tôi có nói: tất cả pháp đều vô thường, biến hoại. Mà pháp vô thường, biến hoại thì đâu có cái gì để gọi là “ai”! Khái niệm “Ai” là chỉ một sự lầm chấp của con người cho rằng có một thực thể cố định, thường hằng, châu biến, bất di bất dịch. Nhưng thực tại của thực thể ấy không có thật, mà chỉ giả có; và tại tập khí (thói quen) tham ái của con người từ nhiều đời nhiều kiếp đã lầm nhận rồi chấp lấy làm ngã mà thôi. Nên sở dĩ con người sinh tử luân chuyển trong ba đường sáu nẻo(25) cũng do nhận lầm cái ngã ấy, chứ thật ra không có một cái gì gọi là “ngã” cả. Ngay trong luân hồi sinh tử cũng không có cái “ngã” nào hết! Do vậy, nếu trả lời câu hỏi đó, thì chẳng khác nào trả lời các phiếm luận: vũ trụ là thường hay vô thường; là hữu biên hay vô biên; con người có tồn tại hay không tồn tại sau khi chết?… Trả lời như vậy cũng đồng nghĩa với việc trả lời các chuyện vô bổ như: người huyễn hoá ăn mấy đấu gạo? sông Hằng có bao nhiêu hạt cát?… Và như thế thì có khác gì chỉ phí công đi tìm lông rùa, sừng thỏ, nhưng làm gì có! Vậy nếu có trả lời chăng, thì tôi sẽ mượn lời đức Phật để nói như thế này: Bị trúng độc, việc trước mắt bạn phải làm gì? Nhổ mũi tên độc ra trước, hay nhất thiết phải hỏi để tìm hiểu chính xác cho bằng được: mũi tên này do ai bắn, bắn từ đâu và vì sao mà bắn… rồi mới chịu nhổ ra? Làm như vậy liệu có còn sống không? Chắc chắn không. Và tôi tin rằng, sẽ không có bất cứ ai trong chúng ta lại làm một việc dại dột như vậy. Cũng thế, nếu chúng ta thật sự còn thấy mình mê mà khổ, thì hãy cố diệt trừ nó đi, thế thôi. Thì đâu cần đặt vấn đề ai mê, ai khổ làm gì cho mệt!
Nói như thế là mỗi chúng ta không có quyền được biết mình khổ hay sao? Nếu tôi không biết tôi khổ thì làm sao tôi có thể hướng mình đến giải thoát an vui được?
Vấn đề không phải vậy. Điều mà ở đây tôi muốn nói chính là để trả lời cho sự lầm chấp của chúng ta, rằng có một cái ngã ở đằng sau sự thọ khổ đó: “Không có người thọ khổ thì ai là người giải thoát khổ? Không có người thọ khổ thì ai là người thực hiện Niết-bàn?”… Nhưng đâu phải! Mà đúng nghĩa của giải thoát khổ hay chứng nhập Niết-bàn là gì? Là không còn sự chấp thủ ngã, tức vô ngã. Vô ngã thì mới nhập được Niết-bàn! Vì sao? Vì “Niết-bàn là cái gì tuyệt đối không dung ngã. Niết-bàn không có hạn lượng, không có nơi chốn, vì Niết-bàn vô tướng – vô tướng nên rất khó vào. Muốn vào Niết-bàn, ta cũng phải vô tướng như Niết-bàn. Cửa Niết-bàn rất hẹp, chỉ bằng tơ tóc nên ta không thể mang theo một hành lý nào mà hy vọng vào Niết-bàn được cả. Cái thân đã không mang theo được, mà cái ý niệm về tôi, về ta cũng không thể đem vào được. Cái ta càng to thì càng xa Niết-bàn. Nên biết, hễ hữu ngã thì luân hồi, mà vô ngã là Niết-bàn”.(26) Như vậy, có vô ngã thì mới nhập được Niết-bàn, bằng còn ý niệm ngã thì không thể giải thoát khổ đau, sinh tử. Hay nói cách khác, vô ngã là Niết-bàn; Niết-bàn là vô ngã. Do đó, ở đây ta cần phải hiểu rằng, vô ngã thì chứng nhập Niết-bàn,
(Bấm vào trang số 13 bên dưới để tiếp tục)…
Tiếng Việt / Bài Viết / Thầy